Mỗi tuổi đều có những đặc điểm riêng, ngày giờ sinh cũng tạo ra những đặc điểm riêng. Chưa cần lấy lá số tử vi, chỉ cần một số đặc điểm về năm, tháng, ngày giờ là có thể xác định được một phần đặc điểm của lá số.
Vị trí cung mệnh được an theo theo tháng và giờ. Tháng 1 khởi đầu tại cung dần, đếm thuận kim đồng hồ, tiếp tục đếm ngược kim đồng hồ theo giờ sinh. Dừng đến đâu thì mệnh an tại đó. Có thể nhận thấy vị trí của cung mệnh có sự ảnh hưởng của tháng sinh và giờ sinh.
Có thể xét ngôi sao ảnh hưởng mạnh đến tháng sinh và giờ sinh là sao địa không. Sao địa không với người sinh giờ tý an tại hợi, kế tiếp người sinh giờ sửu ngược kim đồng hồ an vào tuất. Từ vị trí địa không có thể xác định sao địa kiếp. Địa kiếp an thuận kim đồng hồ.
Sinh tháng 1 âm địa không an tại tử tức
Sinh tháng 2 an tại tài bạch
Sinh tháng 3 an tại tật ách
Sinh tháng 4 an tại thiên di
Sinh tháng 5 an tại nô
Sinh tháng 6 an tại quan
Sinh tháng 7 an tại điền trạch
Sinh tháng 8 an tại phúc
Sinh tháng 9 an tại phụ mẫu
Sinh tháng 10 an tại mệnh
Sinh háng 11 an tại huynh đệ
Sinh tháng 12 an tại phu thê.
Từ vị trí an địa không cũng có thể xác định mệnh nằm chính xác tại cung nào. Ví dụ sinh tháng 8 âm thì địa không cung phúc, nghịch chiều kim đồng hồ sẽ là phụ mẫu và mệnh. Biết được mệnh sẽ biết thân an đâu: giờ tý ngọ mệnh thân đồng cung, giờ sửu mùi thân an phúc, giờ dần thân thân an quan lộc, giờ mão dậu thân an thiên di, giờ thìn tuất thân an tài bạch, giờ tỵ hợi thân an phu thê.
Qua cách an sao địa không có thể nhận thấy tháng sinh ảnh hưởng tới một nhóm người tháng đó là có điểm chung. Người sinh cùng tháng sẽ có một số đặc điểm giống nhau khi mà ngôi sao địa không luôn nằm tại một vị trí cố định so với mệnh.
Ngôi sao như văn xương luôn an ngược như địa không. Và được an trước Địa Không 1 cung. Ví dụ địa không cung Hợi thì Văn Xương sẽ là cung Tuất.
Văn khúc, Thai Phụ, Phong Cáo lại an thuận như địa kiếp. An địa kiếp, tính thuận 3 cung an phong cáo, tính thuận 2 cung tiếp an văn khúc, tính thuận 2 cung nữa an thai phụ ( thai cáo luôn trong tam hợp)
Nhận xét tháng sinh sẽ ảnh hưởng đến các sao như Địa Không, Văn xương tại mệnh hay tại các cung khác. Tháng sinh là có cơ sở ảnh hưởng đến sự chăm chỉ, thi cử may mắn.
Ví dụ địa không cung phụ mẫu thì mệnh sẽ có Văn Xương. Như vậy bản mệnh sẽ có sự mau mắn về chữ nghĩa, hoặc sự chăm chỉ với con chữ. Nhờ đó chỉ cần không hội hóa kỵ thì thi cử sẽ khá dễ dàng.
Những sao an cố định theo tháng như tả hữu, thiên giải, Hình , Riêu, Y lại không chạy theo mệnh. Vì thế ảnh hưởng của những sao này thực chất lại ảnh hưởng theo giờ. Khi sinh vào giờ khác nhau thì các sao này sẽ rơi vào các xung như phúc, điền, quan ... là khác nhau.
Còn như các phụ tinh khác an theo năm sinh thì sẽ cố định, không chạy theo mệnh. Mỗi ngôi sao như vậy có vị trí lạc hãm khác nhau. Biểu trưng cho tỷ lệ hạn chung của 12 con giáp hoặc 10 thiên can là khác nhau.
Như tuổi tý ngọ thì khốc hư tại ngọ tý, thường phát sau 30. Hoặc tuổi đinh an song hao tại mão dậu là đắc địa, hưởng lợi từ song hao. Tuổi sửu, tuổi mùi, tuổi thìn, tuổi tuất, cô quả tam hợp với đào hoa. Ý tượng trong ái tình vẫn luôn cảm nhận thấy sự cô đơn, khó mà yêu hết lòng, vẫn còn phải tính toán đôi chút.
Với 14 chính tinh thì phải đủ 4 yếu tố ngày giờ, tháng, năm mới có thể an 14 sao chính tinh. Từ tháng giờ sẽ tìm ra vị trí của mệnh, và từ can năm sinh sẽ tìm ra cục. Từ cục và ngày sinh sẽ tìm ta vị trí an sao tử vi. Từ sao tử vi an tất cả các sao còn lại. Bao gồm cả tứ hóa.
Bàn về vị trí của tử vi, tử vi từ thì đến dậu thì đều có âm dương sáng sủa. Còn tử vi an từ tuất đến mão thì cặp âm dương bị lạc hãm. Cứ 2 canh giờ thì sao tử vi sẽ an chung 1 vị trí: ví dụ giờ tý tử vi an tại thìn là tử tướng thì giờ sửu tử vi vẫn an tại thìn. Chỉ khác là cung mệnh sẽ chạy theo ngược kim đồng hồ so với vị trí cũ.
Tat -Rùa già đại bát nhã
Có thể xét ngôi sao ảnh hưởng mạnh đến tháng sinh và giờ sinh là sao địa không. Sao địa không với người sinh giờ tý an tại hợi, kế tiếp người sinh giờ sửu ngược kim đồng hồ an vào tuất. Từ vị trí địa không có thể xác định sao địa kiếp. Địa kiếp an thuận kim đồng hồ.
Sinh tháng 1 âm địa không an tại tử tức
Sinh tháng 2 an tại tài bạch
Sinh tháng 3 an tại tật ách
Sinh tháng 4 an tại thiên di
Sinh tháng 5 an tại nô
Sinh tháng 6 an tại quan
Sinh tháng 7 an tại điền trạch
Sinh tháng 8 an tại phúc
Sinh tháng 9 an tại phụ mẫu
Sinh tháng 10 an tại mệnh
Sinh háng 11 an tại huynh đệ
Sinh tháng 12 an tại phu thê.
Từ vị trí an địa không cũng có thể xác định mệnh nằm chính xác tại cung nào. Ví dụ sinh tháng 8 âm thì địa không cung phúc, nghịch chiều kim đồng hồ sẽ là phụ mẫu và mệnh. Biết được mệnh sẽ biết thân an đâu: giờ tý ngọ mệnh thân đồng cung, giờ sửu mùi thân an phúc, giờ dần thân thân an quan lộc, giờ mão dậu thân an thiên di, giờ thìn tuất thân an tài bạch, giờ tỵ hợi thân an phu thê.
Qua cách an sao địa không có thể nhận thấy tháng sinh ảnh hưởng tới một nhóm người tháng đó là có điểm chung. Người sinh cùng tháng sẽ có một số đặc điểm giống nhau khi mà ngôi sao địa không luôn nằm tại một vị trí cố định so với mệnh.
Ngôi sao như văn xương luôn an ngược như địa không. Và được an trước Địa Không 1 cung. Ví dụ địa không cung Hợi thì Văn Xương sẽ là cung Tuất.
Văn khúc, Thai Phụ, Phong Cáo lại an thuận như địa kiếp. An địa kiếp, tính thuận 3 cung an phong cáo, tính thuận 2 cung tiếp an văn khúc, tính thuận 2 cung nữa an thai phụ ( thai cáo luôn trong tam hợp)
Nhận xét tháng sinh sẽ ảnh hưởng đến các sao như Địa Không, Văn xương tại mệnh hay tại các cung khác. Tháng sinh là có cơ sở ảnh hưởng đến sự chăm chỉ, thi cử may mắn.
Ví dụ địa không cung phụ mẫu thì mệnh sẽ có Văn Xương. Như vậy bản mệnh sẽ có sự mau mắn về chữ nghĩa, hoặc sự chăm chỉ với con chữ. Nhờ đó chỉ cần không hội hóa kỵ thì thi cử sẽ khá dễ dàng.
Những sao an cố định theo tháng như tả hữu, thiên giải, Hình , Riêu, Y lại không chạy theo mệnh. Vì thế ảnh hưởng của những sao này thực chất lại ảnh hưởng theo giờ. Khi sinh vào giờ khác nhau thì các sao này sẽ rơi vào các xung như phúc, điền, quan ... là khác nhau.
Còn như các phụ tinh khác an theo năm sinh thì sẽ cố định, không chạy theo mệnh. Mỗi ngôi sao như vậy có vị trí lạc hãm khác nhau. Biểu trưng cho tỷ lệ hạn chung của 12 con giáp hoặc 10 thiên can là khác nhau.
Như tuổi tý ngọ thì khốc hư tại ngọ tý, thường phát sau 30. Hoặc tuổi đinh an song hao tại mão dậu là đắc địa, hưởng lợi từ song hao. Tuổi sửu, tuổi mùi, tuổi thìn, tuổi tuất, cô quả tam hợp với đào hoa. Ý tượng trong ái tình vẫn luôn cảm nhận thấy sự cô đơn, khó mà yêu hết lòng, vẫn còn phải tính toán đôi chút.
Với 14 chính tinh thì phải đủ 4 yếu tố ngày giờ, tháng, năm mới có thể an 14 sao chính tinh. Từ tháng giờ sẽ tìm ra vị trí của mệnh, và từ can năm sinh sẽ tìm ra cục. Từ cục và ngày sinh sẽ tìm ta vị trí an sao tử vi. Từ sao tử vi an tất cả các sao còn lại. Bao gồm cả tứ hóa.
Bàn về vị trí của tử vi, tử vi từ thì đến dậu thì đều có âm dương sáng sủa. Còn tử vi an từ tuất đến mão thì cặp âm dương bị lạc hãm. Cứ 2 canh giờ thì sao tử vi sẽ an chung 1 vị trí: ví dụ giờ tý tử vi an tại thìn là tử tướng thì giờ sửu tử vi vẫn an tại thìn. Chỉ khác là cung mệnh sẽ chạy theo ngược kim đồng hồ so với vị trí cũ.
Tat -Rùa già đại bát nhã
0 nhận xét:
Đăng nhận xét